Thuế tối thiểu toàn cầu: Việt Nam ứng phó như thế nào?

Từ năm 2024, một số quốc gia sẽ áp dụng mức thuế suất tối thiểu toàn cầu 15% với các công ty lớn. Điều này sẽ tác động đến dòng vốn FDI vào Việt Nam nếu không kịp thời có các chính sách ứng phó.

Thời gian thực thi tới gần

Ngày 24-2, Tạp chí Nhà đầu tư thuộc Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tổ chức hội thảo “Giải pháp duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư trong bối cảnh thực thi thuế tối thiểu toàn cầu”.

Thuế tối thiểu toàn cầu là nội dung thứ 2 trong 2 trụ cột chính của chương trình chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS) do Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) khởi xướng, đã được hơn 140 quốc gia đồng thuận. Theo đó, các công ty lớn có doanh thu từ 750 triệu EUR (khoảng 19.500 tỷ đồng) trở lên sẽ bị áp dụng mức thuế suất tối thiểu 15%. Điều này có nghĩa, khi các công ty này đi đầu tư ở nước ngoài mà nộp thuế thu nhập tại nước đầu tư dưới mức 15% thì sẽ phải nộp phần chênh lệch tại nước nơi họ có trụ sở chính.

Theo Tiến sĩ Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu sẽ làm giảm sự cạnh tranh trong thu hút đầu tư tại các quốc gia đang phát triển, vốn chủ yếu dựa vào ưu đãi thuế để thu hút vốn FDI. Mức độ ảnh hưởng phụ thuộc vào đặc điểm của hệ thống thuế, cụ thể là hệ thống thuế thu nhập doanh nghiệp tiêu chuẩn của mỗi quốc gia. Quốc gia có hiệu quả thu thuế thấp sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn. Ngược lại, các quốc gia có thuế suất trung bình hoặc trên mức trung bình với một nguồn thu thuế lớn (mức ưu đãi thuế ít) sẽ ít bị ảnh hưởng việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu. Bên cạnh đó, các quốc gia phát triển có thể là bên hưởng lợi nhiều hơn từ thuế tối thiểu toàn cầu.

Khi có hiệu lực, thuế tối thiểu toàn cầu sẽ tác động cả tích cực và tiêu cực đối với kinh tế Việt Nam. Ở góc độ tích cực, việc tham gia triển khai thuế tối thiểu toàn cầu góp phần tăng cường hội nhập quốc tế của Việt Nam, cải cách hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế; góp phần tăng nguồn thu từ thuế, hạn chế các hiện tượng trốn, tránh thuế, chuyển giá… của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam. Về chiều ngược lại, sức cạnh tranh trong thu hút vốn FDI của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng trong ngắn hạn khi chính sách ưu đãi thuế thay đổi; bên cạnh đó là làm phát sinh các chi phí cải cách hệ thống quản lý thuế.

Còn ông Nguyễn Anh Tuấn, Tổng Biên tập Tạp chí Nhà đầu tư cho hay, Chính phủ nhiều nước đầu tư và tiếp nhận đầu tư đã và đang có những động thái quyết liệt trong việc cân nhắc và đưa ra các chính sách liên quan đến Thuế tối thiểu toàn cầu.

Việc chính thức áp dụng chính sách này sẽ có nhiều tác động tới các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thời gian thực thi đang đến gần đòi hỏi Việt Nam phải đẩy nhanh tiến trình nghiên cứu các chính sách và giải pháp cho việc thực thi để không bị đánh mất quyền thu thuế, đồng thời bảo đảm hài hoà lợi ích giữa nhà nước và nhà đầu tư, khuyến khích các nhà đầu tư duy trì, mở rộng hoạt động đầu tư tại Việt Nam và tiếp tục thu hút được các dự án đầu tư trọng điểm phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong giai đoạn mới.

Đề xuất những giải pháp

Theo Vụ trưởng Vụ Chính sách (Tổng cục Thuế) Lưu Đức Huy, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Tổ công tác đặc biệt về nghiên cứu và đề xuất các giải pháp liên quan đến thuế suất tối thiểu toàn cầu. Bộ Tài chính cũng thành lập nhóm giúp việc gồm các đơn vị chức năng như Tổng cục thuế, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Tài chính doanh nghiệp…

Để hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực đến việc thu hút đầu tư nước ngoài khi áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, nhiều giải pháp đã được đưa ra. Chuyên gia Cấn Văn Lực gợi ý 4 đề xuất.

Thứ nhất, Bộ Tài chính/Tổ công tác đặc biệt cần nhanh chóng nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tác động đầy đủ của việc áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu này để chủ động đề xuất phương án, giải pháp phù hợp.

Thứ hai, nghiên cứu đề xuất Chính phủ trình Quốc hội sớm ban hành, điều chỉnh các chính sách về thuế, kế toán phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, cũng như phù hợp với quy định trong Hiệp định mà Việt Nam đã cam kết trước khi Hiệp định có hiệu lực.

Thứ ba, Bộ Tài chính cần có đánh giá ảnh hưởng của các quy tắc trên bởi mức độ ảnh hưởng lên các chính sách ưu đãi là khác nhau đối với từng quốc gia, tập đoàn đa quốc gia, nhà đầu tư và chính sách ưu đãi cụ thể. Việc đánh giá chi tiết và cụ thể đối với từng quốc gia là rất cần thiết để xây dựng lộ trình cải cách phù hợp.

Thứ tư, Việt Nam cần rà soát và thay đổi chính sách thu hút vốn FDI theo hướng tập trung vào nâng cao năng lực cạnh tranh từ các yếu tố như môi trường đầu tư kinh doanh, lao động có kỹ năng, cơ sở hạ tầng, hệ thống các doanh nghiệp vệ tinh, phụ trợ… vốn là các yếu tố cơ bản khi đưa ra các quyết định đầu tư kinh doanh; thay vì áp dụng các ưu đãi về thuế.

Còn ông Thomas McClelland, Phó Tổng Giám đốc phụ trách Dịch vụ tư vấn thuế, Deloitte Việt Nam cho rằng, Việt Nam nên ban hành các cơ chế, chính sách ưu đãi theo chi phí nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp chịu tác động. Hiện tại, các chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam chưa đa dạng, chỉ tập trung chủ yếu vào các ưu đãi theo thu nhập như ưu đãi về thuế suất và miễn giảm thuế, chưa phổ biến các ưu đãi theo chi phí.

Theo Hanoimoi

Subscribe to our newsletter!

TIN TỨC ESG